Chăn nuôi được xem là một ngành quan trọng trong chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam. Chăn nuôi hiện nay chiếm một tỷ lệ lớn và được xem là nguồn sinh kế của rất nhiều hộ gia đình. Việc tìm hiểu kinh nghiệm quản lý và đầu tư phát triển chăn nuôi của các nước phát triển để làm bài học cho sự phát triển chăn nuôi ở Việt Nam là rất cần thiết.
- Kinh nghiệm của Australia
Australia được đánh giá là quốc gia có nền chăn nuôi phát triển và hiệu quả nhất thế giới. Australia cũng là quốc gia rất quan tâm đến ATTP và phúc lợi động vật nên việc thực hiện các yêu cầu thực hành chăn nuôi tốt ở Australia rất được coi trọng. Australia cũng là quốc gia tài trợ cho dự án xây dựng tiêu chí và triển khai thực hành chăn nuôi tốt chung cho các quốc gia ở khu vực ASEAN.
Công tác quản lý hoạt động chăn nuôi
Một trong những lý do khiến hoạt động chăn nuôi của Australia liên tục phát triển nhiều năm qua là việc quản lý hoạt động chăn nuôi luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính quyền liên bang Trung ương với từng Chính quyền bang hay lãnh thổ trong việc kiểm soát động vật cũng như xây dựng luật pháp. Bên cạnh đó, việc xây dựng luật luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và tư nhân; giữa ngành chăn nuôi và các lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
Hầu hết các trang trại ở Australia có khoảng cách khá xa so với lò mổ gần nhất, Chính phủ và các bên liên quan phải đảm bảo các điều kiện trong quá trình vận chuyển là tối ưu. Chính phủ cũng đặt ra các tiêu chuẩn cụ thể trong quá trình vận chuyển bao gồm cân nhắc cho ăn đường, thời gian nghỉ ngơi và thời gian của hành trình. Những tiêu chuẩn này được áp dụng cho tất cả những người có liên quan đến việc vận chuyển, từ những người liên quan ở trang trại vận chuyển lợn đi cho đến những người sẽ nhận được động vật trong lò mổ.
Đầu tư phát triển chăn nuôi
Xây dựng hệ thống nhận dạng
Để quản lý có hiệu quả đàn gia súc, Chính phủ Australia yêu cầu nông dân đầu tư cho các thiết bị để có thể tiếp cận phương pháp nhận dạng như thẻ tai, đánh dấu tai, đặc biệt là phương pháp tiếp cận nhận dạng không xâm lấn như thẻ điện tử (ID), hệ thống nhận dạng tần số radio (RFID). Đây được coi là một công cụ quản lý khả thi có thể hỗ trợ nông dân giám sát đàn gia súc. Australia khuyến khích người chăn nuôi đầu tư thẻ điện tử (ID) cho vật nuôi vì với thiết bị điện tử này tất cả các thủ tục trong trang trại có thể được thực hiện hoặc tiến hành cùng một lúc. Thẻ điện tử rất hữu ích và được xem như một công cụ truy xuất nguồn gốc hiệu quả cho Chính phủ trong các tình huống khẩn cấp.
Việc đầu tư xây dựng hệ thống thẻ điện tử gia súc được hình thành từ một cuộc đối thoại giữa Chính phủ liên bang với tất cả các tiểu bang và vùng lãnh thổ. Tại diễn đàn này, các thỏa thuận đã được đưa ra và Chính phủ liên bang ban đầu sẽ trả tiền cho Chính phủ của các tiểu bang và vùng lãnh thổ để đưa hệ thống đi vào hoạt động. Sau đó, việc quản lý hệ thống được để lại cho ngành và Chính phủ có quyền truy cập vào cơ sở dữ liệu được tạo. Thông qua hệ thống này, việc truy xuất nguồn gốc dễ dàng hơn, tiết kiệm chi phí và giải quyết được vấn đề giám sát của Chính phủ. Qua nhiều năm thực hiện, hệ thống này đã giúp Chính phủ theo dõi, phát hiện các động vật bị nhiễm bệnh đến từ trang trại nào để giải quyết và xử lý tức thì.
Đầu tư cho đào tạo bác sỹ thú y
Để đủ nhân lực quản lý và cung cấp dịch vụ cho tất cả các trang trại đã đăng ký, Chính phủ thực hiện đào tạo bác sĩ thú y. Những bác sĩ thú y tư nhân được trải qua một khóa đào tạo tiến hành bởi các cơ quan Chính phủ và được công nhận sau đó. Các trang trại có thể lựa chọn thuê các bác sĩ thú y đã được đào tạo và công nhận để giám sát việc tiêm phòng tại trang trại, chuẩn bị cho động vật xuất khẩu, chuẩn bị cho việc di chuyển dài và quản lý động vật trong quá trình vận chuyển.
Đầu tư cho con giống
Để đảm bảo chất lượng đàn vật nuôi, Australia rất quan tâm đến đầu tư cho chất lượng con giống ngay từ khi sinh ra. Thụ tinh nhân tạo là kỹ thuật nhân giống cơ bản được sử dụng trên toàn quốc. Cùng với đó, hầu hết nông dân ở Australia sử dụng các biện pháp cai sữa. Đây được xem là một phương pháp quan trọng giúp cải thiện khả năng sinh sản, hành vi của động vật và năng suất trong tương lai.
- Kinh nghiệm từ Đan Mạch
Chăn nuôi bò ở Đan Mạch (Ảnh: Getty)
Đan Mạch là quốc gia có lịch sử chăn nuôi lâu đời với trên 120 năm và quy mô chăn nuôi rộng lớn. Ngành chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Đan Mạch với 90% sản lượng sản xuất được xuất khẩu sang 120 quốc gia trên thế giới, chiếm hơn 19% tổng sản phẩm thực phẩm xuất khẩu (Danish Agriculture and Food Council, 2018). Được bao quanh bởi nước và có rất ít biên giới đất liền nhưng sản lượng chăn nuôi của Đan Mạch, đặc biệt là lợn có sự gia tăng chóng mặt với 32 triệu con lợn mỗi năm trong vòng 20 năm trở lại đây (FAO, 2019). Đan Mạch đồng thời cũng là quốc gia đầu tư rất nhiều cho nghiên cứu khoa học và kiểm soát rất chặt chẽ hoạt động chăn nuôi nhằm đảm bảo an toàn trong chăn nuôi.
Công tác quản lý chăn nuôi
Ngành chăn nuôi của Đan Mạch được xây dựng trên cơ sở hợp tác giữa nơi chăn nuôi lợn, lò mổ và các công ty chế biến thực phẩm thuộc sở hữu của nông dân. Các HTX công nghiệp đã cho phép nông dân Đan Mạch xây dựng một cơ cấu quản lý thích hợp thuộc sở hữu và kiểm soát của họ. Các HTX lớn trong ngành, các bác sỹ thú y đều được đại diện cho các thành viên của họ đóng góp ý kiến trong việc xây dựng và sửa đổi luật với Chính quyền. Ngoài ra, các cơ quan thú y và thực phẩm Đan Mạch (DVFA) cũng thường xuyên tổ chức các cuộc họp không chính thức với các bên liên quan trong ngành chăn nuôi để thảo luận các vấn đề liên quan đến sức khỏe động vật, phúc lợi và việc sử dụng thuốc trong chăn nuôi. Toàn bộ chuỗi sản xuất từ trang trại đến bàn ăn đều được quản lý bởi Bộ Môi trường và Thực phẩm Đan Mạch (MEFD). Điều này giúp cho các sáng kiến và yêu cầu đề xuất đến được với Chính phủ một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Đầu tư phát triển chăn nuôi
Mô hình đầu tư phát triển chăn nuôi
Mô hình đầu tư chăn nuôi lợn ở Đan Mạch đã có sự thay đổi đáng kể từ đầu những năm 1980. Từ mô hình đầu tư chăn nuôi dưới hình thức các trang trại nhỏ của gia đình trước đây chuyển sang mô hình đầu tư các trang trại quy mô lớn. 2 thập kỷ qua Đan Mạch đã chứng kiến sự hợp nhất mạnh mẽ của các HTX do nông dân làm chủ. Việc hình thành các tổ chức và HTX nông dân mạnh được xem là chìa khóa thành công của Đan Mạch.
Ở Đan Mạch 1/3 các trang trại này được vận hành như các trang trại tích hợp với lợn nuôi trong cùng một trang trại từ khi sinh ra đến khi giết mổ. Các trang trại ngày càng có cấu trúc đàn chuyên biệt hơn với các đàn được chia thành các trang trại lợn nái, trang trại lợn cai sữa, trang trại lợn thịt. Các trang trại này được chăn nuôi hoàn toàn riêng biệt. Sự thay đổi này là kết quả của quy định pháp luật về môi trường rất nghiêm ngặt và quy định về chế độ trợ cấp dành cho động vật trên 1ha (Ministry of Environment and Food of Denmark & Environmental Protection Agency, 2017), đồng thời cũng là do nhu cầu của nông dân nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chăn nuôi.
Hoạt động đầu tư nghiên cứu trong chăn nuôi
Ở Đan Mạch, Bộ Quản lý không thực hiện bất kỳ một nghiên cứu nào. Các nghiên cứu đều được thực hiện ở các ngành. Tuy nhiên, ngoài nghiên cứu được thực hiện ở các ngành, Bộ có thể yêu cầu các nhà nghiên cứu tại các trường Đại học Đan Mạch trả lời các câu hỏi khoa học có liên quan trong quá trình đưa ra quyết định. Các trường Đại học hàng năm được cấp 1 khoản kinh phí để cung cấp các dịch vụ này cho Bộ cùng với việc cung cấp các dự án nghiên cứu. Các hoạt động nghiên cứu và phát triển của các quỹ đầu tư tư nhân trong nhiều năm qua đã giúp ngành công nghiệp chăn nuôi đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất ra thực phẩm an toàn mà vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh với các nhà cung cấp khác trên toàn cầu.
Đan Mạch rất quan tâm đến đầu tư cho các nghiên cứu trong ngành chăn nuôi. Hầu hết các sáng kiến nghiên cứu được chi trả bởi tiền thuế cho mỗi con lợn được giết mổ, mỗi con lợn con được xuất khẩu hoặc tiền bản quyền từ bán con giống di truyền. Các nghiên cứu được thực hiện với sự hợp tác chặt chẽ của các trường đại học, Chính quyền, ngành công nghiệp cung ứng và các Hiệp hội thương mại ở cấp quốc gia và quốc tế. Hầu hết các nghiên cứu này đều được thực nghiệm tại các trang trại chăn nuôi với hơn 200 trang trại tham gia vào các cuộc thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu được các hội nông dân phổ biến cho các thành viên trong Hội.
Cơ cấu tổ chức độc đáo này của ngành chăn nuôi Đan Mạch đã giúp cho kết quả nghiên cứu và việc thực hành kết quả nghiên cứu một cách tốt nhất được thực hiện dễ dàng hơn ở các vùng. Cơ cấu này yêu cầu mỗi người chăn nuôi phải là thành viên trong một tổ chức nào đó.
Đầu tư chăm sóc sức khỏe vật nuôi
Từ năm 1995, Đan Mạch bắt đầu chú trọng đến việc đầu tư chăm sóc sức khỏe vật nuôi. Các hộ nông dân phải thực hiện đầu tư chăm sóc và điều trị cho vật nuôi thông qua “Hợp đồng dịch vụ tư vấn thú y (VASCs)” giữa nông dân và bác sỹ thú y. Từ năm 1995-2010, hợp đồng dịch vụ tư vấn thú y là tự nguyện nhưng từ năm 2010, chúng trở thành bắt buộc đối với tất cả các đàn lợn lớn.
Hiện nay, trên 95% lợn ở Đan Mạch được đầu tư bảo vệ sức khỏe theo các thỏa thuận trong Hợp đồng dịch vụ tư vấn thú y. Mỗi năm, theo quy định đối với Hợp đồng dịch vụ tư vấn thú y bắt buộc phải có 12 lần thăm khám sức khỏe thú y. Số lượng thăm khám có thể tăng lên theo yêu cầu chăm sóc tốt hơn cho đàn gia súc. Việc thăm khám thường xuyên đàn gia súc giúp cho nông dân quản lý tốt sức khỏe vật nuôi, bảo vệ động vật và phòng chống dịch bệnh.
Sử dụng thuốc trong chăn nuôi
Bên cạnh việc coi trọng đầu tư chăm sóc sức khỏe vật nuôi, Đan Mạch cũng rất chú trọng đến việc giảm thiểu việc sử dụng thuốc chống vi trùng và kháng sinh trong chăn nuôi. Theo báo cáo của FAO (2019), Đan Mạch là quốc gia có tỷ lệ sử dụng thuốc chống vi trùng và thuốc kháng sinh trong chăn nuôi thấp nhất so với các nước châu Âu.
Kinh nghiệm quản lý chăn nuôi của Đan Mạch, đặc biệt trong vấn đề quản lý sử dụng thuốc chống vi trùng¸ thuốc kháng sinh trong chăn nuôi được FAO lấy làm bài học điển hình cho nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Đan Mạch, việc sử dụng thuốc chống vi trùng trong ngành chăn nuôi lợn đang giảm mỗi năm mặc dù sản lượng ngày càng tăng. Nhận thức của cộng đồng quốc gia về việc sử dụng thuốc chống vi trùng và kháng sinh trong chăn nuôi đã bắt đầu hình thành từ những năm 1990.
Để giải quyết vấn đề này, Đan Mạch đã hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền, ngành công nghiệp chăn nuôi và các nhà khoa học. Các giải pháp được đề xuất ở cấp quốc gia nhận được sự hỗ trợ rộng rãi trong toàn bộ hệ thống chính trị, các nhà khoa học và người chăn nuôi. Các sáng kiến hoặc luật mới được thảo luận giữa các bên liên quan và thường được điều chỉnh để đảm bảo tuân thủ và hiệu quả tốt hơn. Cách tiếp cận này được xem là then chốt cho những thành công đạt được ở Đan Mạch trong việc hạn chế sử dụng thuốc chống vi trùng và kháng sinh trong ngành chăn nuôi.
- Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Ảnh: Sưu tầm
Ngành chăn nuôi của Hoa Kỳ là một ngành công nghiệp đa dạng, bao gồm các trang trại chăn nuôi gia súc và gia cầm sử dụng cả hệ thống đồng cỏ cũng như chuồng trại để chăn nuôi, phục vụ nhu cầu sử dụng trong gia đình, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Hoạt động đầu tư cho chăn nuôi và chăm sóc động vật đều dựa trên cơ sở khoa học do người tiêu dùng quan tâm đến phúc lợi động vật.
Công tác tổ chức quản lý
Ở Hoa Kỳ có 4 cơ quan quan trọng trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) liên quan đến giám sát và điều tiết động vật ở Mỹ (Kelan, 2011), bao gồm:
Cơ quan dịch vụ kiểm tra sức khỏe động vật và thực vật (APHIS):
Chịu trách nhiệm bảo vệ và cải thiện sức khỏe, chất lượng và thị trường của động vật, sản phẩm động vật và sinh học thú y của Hoa Kỳ. Đây cũng là văn phòng phụ trách các phòng thí nghiệm thú y và phục vụ như một trung tâm sinh học thú y. Ngoài ra, APHIS cũng tiến hành giám sát, theo dõi và báo cáo sức khỏe động vật trên khắp Hoa Kỳ. Thông qua “Hệ thống giám sát sức khỏe động vật quốc gia” (NAHSS) của APHIS, một mạng lưới các cơ quan hợp tác ở Hoa Kỳ đã được tạo ra để phát hiện nhanh các ổ dịch và bệnh và cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc của động vật và sản phẩm động vật. Năm 2003, NAHSS đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc phát hiện bệnh não Bovine Spongiform Encephalopathy (BSE) ở Hoa Kỳ. Hiện tại, USDA đang sửa đổi các quy định của mình để cải thiện khả năng truy tìm nguồn gốc của vật nuôi, đặc biệt là những vật nuôi di chuyển giữa các tiểu bang để giải quyết khi dịch bệnh xảy ra. Quy định này được đề xuất ngày 9/11/2011. APHIS cũng thực hiện “Kế hoạch cải thiện gia cầm quốc gia”, bao gồm sự hợp tác giữa các đại diện của liên bang, tiểu bang và ngành. Kế hoạch tập trung vào việc cải thiện các công nghệ chẩn đoán bệnh cho sản xuất gia cầm.
Cơ quan dịch vụ kiểm tra an toàn thực phẩm (FSIS):
Chịu trách nhiệm thực hiện chương trình xác nhận phân tích mối nguy về các điểm kiểm soát quan trọng (HACCP) nhằm giảm sự xuất hiện và số lượng vi sinh vật gây bệnh trong sản phẩm thịt và gia cầm.
Viện Thực phẩm và Nông nghiệp Quốc gia (NIFA):
Một mạng lưới quan trọng của USDA, là kết quả của sự hợp tác giữa Chính phủ tiểu bang và liên bang về chẩn đoán bệnh động vật. NIFA quản lý giáo dục phi chính thức và hỗ trợ nông nghiệp cho các cộng đồng ở Hoa Kỳ. Cung cấp các chương trình tài trợ cạnh tranh để cải thiện sức khỏe và sản xuất động vật.
Cơ quan dịch vụ tiếp thị nông nghiệp (AMS):
Thực hiện các chương trình chứng nhận khác nhau để đảm bảo sự an toàn của các sản phẩm thực phẩm, bao gồm phân loại và chứng nhận gia cầm, kiểm soát chất lượng thịt gà, phân loại và chứng nhận trứng, giám sát chương trình ghi nhãn xuất xứ. AMS cũng chịu trách nhiệm triển khai “Chương trình Hữu cơ Quốc gia của USDA”. Chương trình chứng nhận cho các sản phẩm hữu cơ liên quan đến việc xác minh các tiêu chuẩn liên quan đến sản xuất, xử lý và duy trì tính toàn vẹn hữu cơ của nó.
Đầu tư phát triển chăn nuôi
Đầu tư cho bảo hiểm trong nông nghiệp
Hoa Kỳ được đánh giá là quốc gia có hệ thống đầu tư cho bảo hiểm nông nghiệp rất phát triển. Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện “Chương trình bảo hiểm liên bang trong lĩnh vực nông nghiệp” từ năm 1938. Chương trình bảo hiểm được thực hiện dưới sự hỗ trợ đầu tư mãnh mẽ của Chính phủ, đây là chương trình phối kết hợp giữa các doanh nghiệp bảo hiểm và Chính phủ các bang.
Việc hỗ trợ đầu tư cho bảo hiểm được thực hiện dưới nhiều hình thức như cung cấp trợ cấp bảo hiểm cho vật nuôi với tỷ lệ bảo hiểm là 13%; cung cấp miễn phí hợp đồng bảo hiểm năng suất thiên tai cơ bản với mức bồi thường trên 50% năng suất của 4 năm liền kề và tính với mức giá bằng 60% giá trị thị trường. Bên cạnh đó, người nông dân còn có thể mua bảo hiểm với mức hỗ trợ cao hơn đến 38% tổng tiền đầu tư từ Chính phủ.
Ngoài hỗ trợ cho các nông hộ, Chính phủ Hoa Kỳ còn hỗ trợ cho các công ty bảo hiểm tham gia vào chương trình bảo hiểm nông nghiệp liên bang như hỗ trợ chi phí quản lý với mức hỗ trợ tương ứng là 22% tổng phí bảo hiểm; nhận tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm với khoản tiền tương ứng là 14% tổng phí bảo hiểm. Mức tiền đầu tư hỗ trợ bảo hiểm cho nông nghiệp của Hoa Kỳ ngày càng tăng, hiện nay trung bình Nhà nước chịu 70%, còn người dân chỉ phải chịu 30%. Vật nuôi được bảo hiểm cho những trường hợp chết do tai nạn hoặc dịch bệnh; bảo hiểm cho giảm giá chăn nuôi. Ở Hoa Kỳ hình thành riêng 1 cơ quan bảo vệ giảm giá chăn nuôi là cơ quan bảo vệ rủi ro vật nuôi.
Nghiêm túc thực hiện ATSH
Một trong những điều tối quan trọng đối với người chăn nuôi ở Hoa Kỳ để đảm bảo thành công là phải đảm bảo ATSH trong chăn nuôi. Chỉ cần một lỗ hổng nhỏ trong ATSH có thể gây ra thảm họa đối với chăn nuôi. Đây chính là nguyên nhân của rất nhiều dịch bệnh xảy ra. Chính vì vậy, ở Hoa Kỳ rất coi trọng việc phải đảm bảo thực thi nghiệm ngặt vấn đề ATSH, đảm bảo môi trường chăn nuôi sạch sẽ, bao gồm: (1) Đảm bảo cung cấp nguồn nước sạch cho chăn nuôi; (2) Đảm bảo chất lượng không khí của khu vực chăn nuôi; (3) Quản lý tốt chất thải chăn nuôi; (4) Nâng cao năng lực chăn nuôi không dùng kháng sinh. Cục quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) thường xuyên thực hiện các hoạt động kiểm soát việc sử dụng kháng sinh sử dụng trong chăn nuôi.
- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tổ chức, quản lý chăn nuôi
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa quản lý Trung ương và quản lý tại từng địa phương đối với hoạt động chăn nuôi, từ việc tuân thủ các tiêu chuẩn của quy trình đến việc xây dựng văn bản pháp luật liên quan.
Ngành chăn nuôi cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở chăn nuôi, lò mổ, các công ty chế biến thực phẩm, các công ty tiêu thụ sản phẩm. Đại diện của cơ sở trên đều có thể được quyền tham gia đóng góp ý kiến trong việc xây dựng và sửa đổi luật của Chính phủ. Việc quản lý toàn bộ chuỗi sản xuất từ trang trại đến bàn ăn nên giao cho một Bộ quản lý chuyên trách. Điều này giúp cho trách nhiệm được xác định rõ ràng, các sáng kiến và yêu cầu đề xuất đến được với Chính phủ một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Hình thành một cơ quan chuyên trách bảo vệ giảm giá và rủi ro trong chăn nuôi.
Công tác kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định chăn nuôi cần được thực hiện thường xuyên và có biện pháp xử lý quyết liệt đối với những trường hợp không tuân thủ. Thông tin các đơn vị thực hành đủ tiêu chuẩn và vi phạm cần được công bố công khai.
Đầu tư phát triển chăn nuôi
Mô hình đầu tư chăn nuôi
Để hoạt động chăn nuôi có hiệu quả nên hình thành những trang trại chăn nuôi lớn, áp dụng công nghệ hiện đại trong chăn nuôi, hạn chế chăn nuôi nhỏ lẻ ở từng hộ gia đình. Các trang trại lợn sẽ hoạt động an toàn và dễ kiểm soát hơn nếu được vận hành theo mô hình tích hợp với lợn nuôi trong cùng một trang trại từ khi sinh ra cho đến khi giết mổ. Để hoạt động có hiệu quả, các trang trại nên có cấu trúc đàn chuyên biệt với các trang trại lợn nái, lợn cai sữa, lợn thịt nhằm chuyên nghiệp hóa trong chăm sóc và tối ưu việc sử dụng nguồn thức ăn chăn nuôi.
Đầu tư các hoạt động nghiên cứu chăn nuôi
Bộ quản lý chuyên ngành cần phối hợp với các trường Đại học thực hiện các đề tài cũng như dự án nghiên cứu trong lĩnh vực chăn nuôi nhằm có những quy hoạch, định hướng đúng cho hoạt động chăn nuôi, đồng thời tìm ra các giải pháp phù hợp để quản lý và xử lý tốt các tình huống phát sinh trong hoạt động chăn nuôi. Kinh phí cho hoạt động nghiên cứu có thể huy động từ các nguồn: (1) Do Bộ chi trả cho các dự án nghiên cứu của các trường Đại học; (2) Phát triển các quỹ đầu tư tư nhân; (3) Tiền thuế từ mỗi con lợn được giết mổ.
Các nghiên cứu trong lĩnh vực chăn nuôi cần có sự hợp tác rất chặt chẽ giữa các Trường Đại học, chính quyền, Hiệp hội chăn nuôi, Hiệp hội thương mại cả trong nước và quốc tế. Các nghiên cứu cũng cần được thực nghiệm tại các trang trại chăn nuôi và kết quả nghiên cứu phải được phổ biến cho tất cả các thành viên trong Hiệp hội. Việc hợp tác trong lĩnh vực chăn nuôi giúp kết quả nghiên cứu được ứng dụng và thực hiện một cách dễ dàng trong thực tế. Để thực hiện được điều này thì mỗi cơ sở chăn nuôi phải nằm trong một Hiệp hội nào đó.
Quản lý và đầu tư kiểm soát dịch bệnh
Việc quản lý dịch bệnh phải đặc biệt được coi trọng vì đây là rủi ro ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động chăn nuôi. Để phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả cần phải thực hiện công tác tuyên truyền về quy trình kiểm soát và xử lý dịch bệnh cho người chăn nuôi; đầu tư tiêm phòng đầy đủ cho tất cả vật nuôi. Đối với những bệnh nghiêm trọng hoặc những bệnh có thể gây ra ảnh hưởng xấu trên diện rộng, Nhà nước có thể thực hiện đầu tư hỗ trợ vắc xin phòng bệnh cho người chăn nuôi. Bên cạnh đó, việc đầu tư một cách có hệ thống cho việc đánh dấu thẻ tai vật nuôi trên diện rộng cũng là một giải pháp hữu hiệu để quản lý vật nuôi và dịch bệnh, có thể phân loại thẻ tai theo nguồn gốc vật nuôi như thẻ màu đỏ để theo dõi động vật nhập khẩu; thẻ màu xanh để theo dõi động vật trong vùng; thẻ màu vàng theo dõi động vật từ các vùng khác.
Đầu tư con giống
Để đảm bảo chất lượng vật nuôi, Việt Nam cần chú trọng đến đầu tư con giống trong chăn nuôi như nghiên cứu đầu tư lai tạo giống đảm bảo chất lượng, năng suất cao; đầu tư hỗ trợ cho các hộ nông dân về liều tinh và các biện pháp hỗ trợ sinh sản nhằm đảm bảo chất lượng con giống đầu vào.
Truy xuất nguồn gốc sản phẩm
Đầu tư các vật tư cần thiết: Để có thể thực hiện đánh dấu phân biệt giữa sản phẩm chăn nuôi trong nước và sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu; giữa con giống trong nước và con giống nhập khẩu; phân biệt sản phẩm chăn nuôi của các vùng miền để trong trường hợp có dịch bệnh hoặc sự cố xảy ra có thể dễ dàng nhận biết nguồn gốc. Về lâu dài, nên đầu tư áp dụng công nghệ nhận dạng không xâm lấn như thẻ điện tử (ID) hoặc hệ thống nhận dạng tần số radio (RFID). Đây là phương pháp quản lý vật nuôi tiên tiến. Với phương pháp này, Chính phủ có thể dễ dàng truy xuất nguồn gốc động vật bị nhiễm bệnh và xử lý ngay tức thời.
Đầu tư cho việc nhận diện sản phẩm: Sản phẩm đạt tiêu chuẩn cần có logo nhận biết. Cần đầu tư cho hệ thống quản lý, cấp phát và giám sát việc tuân thủ dán nhãn logo để đảm bảo sản phẩm được dán nhãn logo thật sự đúng là sản phẩm đạt tiêu chuẩn.
TS. Lương Hương Giang (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
(https://nhachannuoi.vn/kinh-nghiem-quan-ly-va-dau-tu-phat-trien-chan-nuoi-cua-mot-so-quoc-gia-phat-trien-va-bai-hoc-cho-viet-nam-ky-i/, ngày 31/12/2024 và https://nhachannuoi.vn/kinh-nghiem-quan-ly-va-dau-tu-phat-trien-chan-nuoi-cua-mot-so-quoc-gia-phat-trien-va-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-viet-nam-ky-ii/, ngày 01/9/2025)