Sáng ngày 8/8/2025, tại Hà Nội, Liên minh Đổi mới Công nghiệp thịt lợn Trung Quốc – ASEAN, Công ty Triển lãm công nghiệp chăn nuôi lợn thế giới phối hợp tổ chức “Diễn đàn đổi mới ngành chăn nuôi lợn Trung Quốc – Việt Nam”.
Diễn đàn có sự hỗ trợ học thuật từ Trường Đại học Quảng Tây (Trung Quốc), Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và hỗ trợ truyền thông từ Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam.
Việt Nam – Trung Quốc: Chia sẻ kinh nghiệm, thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn hiện đại
TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam
Phát biểu khai mạc diễn đàn, TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam nhấn mạnh, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng nổi bật trong ngành chăn nuôi. Cả hai đều là láng giềng trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thị trường có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và nhu cầu sản phẩm chăn nuôi cao nhất thế giới. Về quy mô, Trung Quốc hiện dẫn đầu thế giới với tổng đàn lợn khoảng 640 triệu con, trong đó hơn 40 triệu lợn nái; Việt Nam đứng thứ 6 với khoảng 60 triệu lợn thịt và hơn 2,5 triệu lợn nái. Đàn thủy cầm của Việt Nam cũng đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc.
Sự đa dạng sinh học và cơ cấu kinh tế – xã hội tương đồng giúp ngành chăn nuôi hai nước sở hữu hầu hết các loại vật nuôi phổ biến, từ trâu, bò, dê, cừu đến gia cầm, ong, tằm, thậm chí cả các vật nuôi đặc thù như giun, dế. Trong tiêu dùng, thịt lợn vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối trong khẩu phần thực phẩm của người dân hai nước.
Tuy nhiên, cả Việt Nam và Trung Quốc đều phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, đặc biệt là ngô, đậu tương, khô dầu, bột thịt và bột xương. Cả hai quốc gia cũng từng chịu thiệt hại nặng nề do dịch tả lợn châu Phi, bùng phát tại Trung Quốc năm 2018 và tại Việt Nam năm 2019, khiến phương thức chăn nuôi phải thay đổi căn bản, hướng tới mô hình an toàn sinh học.
Nếu như Trung Quốc đã sớm làm chủ nhiều công nghệ tiên tiến như “trại thông minh” và “trại an toàn sinh học”, giúp nhanh chóng khôi phục đàn lợn sau dịch và giữ vững vị trí số 1 thế giới, thì Việt Nam mới bắt đầu chuyển mình mạnh mẽ từ khi mở cửa hội nhập đầu thập niên 1990. Thời điểm đó, Trung Quốc đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp chăn nuôi nội địa lớn như Newhope, Ehope…, trong khi Việt Nam mới ghi nhận sự đầu tư ban đầu của các Tập đoàn nước ngoài như C.P, Proconco, Guyomarc’h…
Diễn đàn lần này được kỳ vọng sẽ mang đến nhiều thông tin, kinh nghiệm thực tiễn trong quản lý sản xuất, kỹ thuật con giống, dinh dưỡng, kiểm soát dịch bệnh, quản lý tiểu khí hậu chuồng nuôi, đặc biệt là ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong chăn nuôi an toàn sinh học, nâng cao năng suất, chất lượng và phát triển bền vững. TS. Nguyễn Xuân Dương khẳng định: “Khoa học – công nghệ không lựa chọn quốc gia, nhưng mỗi nước, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn để đạt hiệu quả tối ưu. Hợp tác Việt Nam – Trung Quốc trong lĩnh vực này sẽ mang lại lợi ích chung và thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn phát triển bền vững”.
Ông Dương cũng hy vọng, diễn đàn sẽ là nơi để các chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp của hai nước chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi lợn. Là cơ hội để các nhà khoa học, chuyên gia và doanh nghiệp trao đổi về kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, quản trị giống, dinh dưỡng, dịch bệnh và thị trường, góp phần nâng tầm ngành chăn nuôi lợn trong tương lai.
PGS.TS Lê Văn Phan – Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
PGS.TS Lê Văn Phan cho biết, chăn nuôi lợn là một trong những ngành đáng tự hào tại Việt Nam. Tuy nhiên, đi kèm với đó là những thách thức trong kiểm soát dịch bệnh do phần lớn vẫn là các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún. Ông Phan nhấn mạnh, việc phát hiện sớm dịch bệnh và thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp an toàn sinh học phải được đặt lên hàng đầu. Cùng với đó, cần xét nghiệm, lấy mẫu máu định kỳ để kiểm tra kháng thể, tiêm phòng vaccine nhằm tăng cường miễn dịch tự nhiên cho đàn lợn, đồng thời ngăn chặn nguy cơ virus lây nhiễm chéo giữa các chuồng trại.
Trung Quốc: Tiên phong nghiên cứu công nghệ giống và chuồng trại
GS.TS Triệu Cẩm Thượng, Đại học Quảng Tây
Theo GS.TS Triệu Cẩm Thượng, trong Top 20 Tập đoàn chăn nuôi lợn lớn nhất Trung Quốc, có tới 16 doanh nghiệp đã thiết lập cơ sở sản xuất tại Quảng Tây. Năm 2024, toàn tỉnh có 10 doanh nghiệp đạt sản lượng xuất chuồng trên 1 triệu con, trong đó 6 doanh nghiệp vượt ngưỡng 2 triệu con. Nhóm 20 doanh nghiệp đầu ngành duy trì 1,1343 triệu con nái sinh sản, chiếm 50,01% tổng đàn toàn khu vực và sản lượng lợn xuất chuồng đạt 30,3703 triệu con, tương đương 83,17% sản lượng của cả tỉnh.
Hiện, tỉnh duy trì 173 trại lợn giống được cấp phép, sản lượng hàng năm đạt 300.000 con giống. Trong số này có 4 trại giống hạt nhân cấp quốc gia và 2 trạm đực giống hạt nhân cấp quốc gia. Tổng số đực giống hạt nhân toàn Trung Quốc đạt 5.400 con, riêng Quảng Tây duy trì 1.603 con, chiếm 29,7%, tỷ lệ cao hàng đầu cả nước.
Trung Quốc, quốc gia đứng đầu thế giới về quy mô đàn lợn, đang phải đối diện với hàng loạt thách thức trong quá trình phát triển ngành chăn nuôi. Thách thức đầu tiên và cũng là mối lo ngại lớn nhất là dịch tả lợn châu Phi (ASF). Năm 2024, tỷ lệ tái phát ASF tại các tỉnh biên giới của Trung Quốc vẫn ở mức 8%, cho thấy dịch bệnh chưa được kiểm soát triệt để, tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trở lại và gây thiệt hại lớn cho ngành.
Một vấn đề đáng chú ý khác là sự phụ thuộc gần như tuyệt đối vào nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu. Tỷ lệ nhập khẩu khô đậu nành, nguyên liệu chủ lực cho sản xuất thức ăn gia súc, của Trung Quốc hiện vượt 85%. Điều này khiến chi phí sản xuất chịu tác động mạnh từ biến động giá trên thị trường quốc tế và gia tăng rủi ro về an ninh nguồn cung.
Song song với đó, việc áp dụng các quy chuẩn môi trường mới như Tiêu chuẩn GB 18596-2023 đặt ra yêu cầu nâng cấp hệ thống xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. Theo ước tính, chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn này có thể làm tăng chi phí sản xuất thêm từ 15% đến 20%, gây áp lực không nhỏ cho các doanh nghiệp và trang trại.
Biến đổi khí hậu cũng là yếu tố khiến ngành chăn nuôi lợn Trung Quốc phải điều chỉnh hoạt động sản xuất. Những đợt nắng nóng cực đoan gây sốc nhiệt cho đàn lợn, ảnh hưởng đến sức khỏe, năng suất và chất lượng thịt. Điều này đòi hỏi các giải pháp kỹ thuật tiên tiến để kiểm soát tiểu khí hậu chuồng trại và bảo vệ đàn vật nuôi. Những thách thức trên đã thúc đẩy Trung Quốc đầu tư phát triển vào quy mô và công nghệ phòng dịch, đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu, nâng cấp hạ tầng môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu để duy trì vị thế dẫn đầu và phát triển bền vững.
Trung Quốc đang ghi dấu ấn mạnh mẽ với những đột phá công nghệ trong lĩnh vực chăn nuôi lợn, đặc biệt ở mảng chọn giống và kiểm soát dịch bệnh. Nổi bật là việc tự nghiên cứu và phát triển thành công chip gen mật độ cao T100K với độ phân giải vượt trội, nâng từ chuẩn 55K truyền thống lên 100K, giúp phân tích gen chính xác hơn với mức độ tự động hóa cao và chi phí thấp.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã tạo ra giống lợn chỉnh sửa gen kháng bệnh tai xanh đầu tiên trong nước, sở hữu quyền sở hữu trí tuệ độc lập, có khả năng kháng hoàn toàn các chủng virus tai xanh độc lực cao và biến dị. Giống lợn này đã được cấp chứng nhận an toàn sinh học, đảm bảo không phát thải mầm bệnh ra môi trường, mở ra hướng đi mới trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và an toàn dịch bệnh cho ngành chăn nuôi.
Ông Shi Guangxiao, Tổng Giám đốc Công ty Công nghệ Yingzi Quảng Châu
Ông Shi Guangxiao, Tổng Giám đốc Công ty Công nghệ Yingzi Quảng Châu chia sẻ về mô hình trang trại nhà tầng chăn nuôi lợn, được xem là giải pháp đột phá nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đảm bảo an toàn sinh học. Khác với mô hình truyền thống, hệ thống này được thiết kế theo chuỗi khép kín, tích hợp từ nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi, khu nhân giống, khu nuôi thương phẩm, nhà máy giết mổ, chế biến sâu cho đến khâu thương mại. Nhờ tổ chức sản xuất theo chiều cao, lượng lợn ra vào được giảm thiểu đáng kể, hạn chế tối đa tiếp xúc giữa người – vật nuôi – môi trường, đồng thời hệ thống thông gió nhiều hướng được bố trí tách biệt giúp cắt đứt các đường lây nhiễm dịch bệnh.
Công nghệ quản lý kết hợp phần cứng và phần mềm thông minh cho phép tự động hóa tới 80% quy trình, giảm nhu cầu nhân công và chi phí đầu vào, đồng thời kết nối dữ liệu trực tuyến theo thời gian thực để tối ưu hóa quản trị. Với hiệu quả sử dụng đất và thức ăn chăn nuôi cao, giá trị đàn lợn ổn định và khả năng cung ứng thực phẩm an toàn, mô hình này được kỳ vọng sẽ trở thành xu hướng phát triển mới của ngành chăn nuôi lợn hiện đại.
Toàn cảnh khách mời tham dự Diễn đàn
Một số hình ảnh tại sự kiện:
TS. Sarah Jayme. Chuyên gia thú y, tổ chức FAO trình bày về chủ đề “Sáng kiến phòng chống dịch tả lợn châu Phi”
Ký kết hợp tác giữa trường Đại học Quảng Tây, Trung Quốc và Viện Chăn nuôi (Việt Nam)
Bà Grace Yu. Công ty TNHH Khoa học công nghệ Tập đoàn NONGXIN Bắc Kinh trình bày về chủ đề “Trường hợp chuyển đổi và nâng cấp số thông minh của nông nghiệp Trung Quốc – Sự Khám Phá và Thực Tiễn của Công ty TNHH Khoa học công nghệ Tập đoàn NONGXIN Bắc Kinh”
TS. Trương Giai. Trưởng khoa Chăn nuôi Thông minh Gia súc Gia cầm, Học viện
Kỹ thuật Nông nghiệp Phúc Kiến trình bày về chủ đề “Hệ thống Dữ liệu Chăn nuôi Heo:
Ứng dụng và Phát triển”
TS. Zhang Weichao. Tập đoàn Guangxi Yangxiang trình bày về chủ đề “Ứng dụng thực tiễn của mô hình “trại nuôi heo thùng sắt”
trong công tác phòng chống dịch tả heo châu Phi”
Ông Allan Liu. Giám đốc Kinh doanh và Chuyên gia hoạch định chăn nuôi heo cao cấp trình bày về chủ đề “Từ ứng phó khẩn cấp đến kiểm soát bền vững: Lộ trình kỹ thuật và bài học thực tiễn trong phòng chống dịch tả lợn châu Phi ở Trung Quốc”
Gian hàng của các doanh nghiệp TQ nhận được sự quan tâm từ khách mời tham dự sự kiện
Gian hàng của các doanh nghiệp TQ nhận được sự quan tâm từ khách mời tham dự sự kiện
Trần My
Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam
(https://nhachannuoi.vn/dien-dan-doi-moi-nganh-chan-nuoi-lon-viet-nam-trung-quoc-diem-hen-chan-nuoi-an-toan-va-ben-vung/, ngày 8/9/2025)