Phải làm gì trước nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên gia cầm?

Với hơn 550 triệu gia cầm được nuôi tại Việt Nam cùng hơn 900 loài chim hoang dã, Việt Nam là quốc gia có nguy cơ rất cao về bùng phát dịch cúm gia cầm.

 

TS. Nguyễn Thị Hương, Chủ tịch Hội KHKT Thú y Việt Nam

Trước diễn biến phức tạp của dịch cúm gia cầm, sáng 21/6/2025 tại Hà Nội, Hội KHKT Thú y Việt Nam (Hội Thú y) tổ chức hội thảo kỹ thuật với chủ đề “Thực tiễn về cúm gia cầm: Cập nhật tình hình dịch tễ, chẩn đoán và các giải pháp ứng dụng trong chăn nuôi”. Sự kiện nhằm cập nhật thông tin mới nhất về tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, chia sẻ kinh nghiệm chẩn đoán, phòng ngừa và mô hình kiểm soát dịch hiệu quả từ thực tiễn sản xuất.

Hội thảo có sự tham gia của PGS.TS. Bùi Trần Anh Đào – Trưởng Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam; TS. Phạm Thành Long – Cục Chăn nuôi và Thú y; TS. Nguyễn Đăng Thọ – Trung tâm Chẩn đoán Thú y Trung ương; PGS.TS. Nguyễn Văn Giáp – Học viện Nông nghiệp Việt Nam, cùng nhiều chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp và đại diện các cơ sở chăn nuôi.

Phát biểu khai mạc, TS. Nguyễn Thị Hương – Chủ tịch Hội Thú y cho biết: “Việt Nam nằm trong vành đai cúm của khu vực châu Á – Thái Bình Dương và hơn 20 năm qua liên tục đối mặt với sự lưu hành, biến đổi của các chủng virus cúm gia cầm độc lực cao. Mặc dù công tác phòng chống dịch đã đạt nhiều kết quả tích cực, song nguy cơ bùng phát vẫn luôn hiện hữu, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mật độ chăn nuôi cao và giao thương ngày càng mở rộng”.

Bên cạnh việc đảm bảo an toàn sinh học, người chăn nuôi cần chủ động tiêm vaccine phòng bệnh. “Chăn nuôi chỉ hiệu quả khi an toàn dịch bệnh được kiểm soát. Muốn vậy, phải đầu tư bài bản và chăm sóc tốt cho vật nuôi”, TS. Hương nhấn mạnh.

Hàng trăm nghìn gia cầm bị tiêu hủy mỗi năm

Theo TS. Nguyễn Đăng Thọ, Trung tâm Chẩn đoán thú y Trung ương, cúm gia cầm là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm, do virus cúm A (Influenza A) gây ra. Virus này có khả năng lây lan nhanh, biến đổi liên tục và gây tỷ lệ chết rất cao, lên đến 100% đối với các chủng độc lực cao (HPAI). Virus cúm gia cầm thuộc 144 dòng phụ (subtype). Các chủng virus phổ biến tại Việt Nam hiện nay bao gồm H5N1, H5N6 và H5N8, trong đó H5 và H7 là những chủng có độc lực cao. Bệnh không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành chăn nuôi mà còn tiềm ẩn nguy cơ lây sang người.

Trong bối cảnh giao mùa, điều kiện khí hậu thuận lợi cho virus phát tán, ngành thú y cảnh báo người dân không chủ quan, cần chủ động giám sát đàn vật nuôi, kịp thời báo cáo cơ quan chức năng khi có dấu hiệu bất thường để khoanh vùng, xử lý triệt để ổ dịch.

TS. Phạm Thành Long, Phòng Dịch tễ, Cục Chăn nuôi và Thú y cho biết, từ năm 2019 đến tháng 4/2025, dịch cúm gia cầm đã xuất hiện tại 358 xã trên toàn quốc, buộc ngành chăn nuôi phải tiêu hủy hơn 240.000 con gia cầm mỗi năm. Trước đó, giai đoạn 2003-2006, Việt Nam từng trải qua đợt bùng phát nghiêm trọng, khiến hơn 45 triệu con gia cầm bị tiêu hủy, thiệt hại kinh tế lên tới 248 triệu USD. Đáng chú ý, Việt Nam hiện có ba chủng cúm gia cẩm lưu hành gồm H5N1, H5N6 và H5N8. Riêng virus A/H5N1 đã từng lây sang cả động vật hoang dã như hổ, sư tử và báo đen tại một số cơ sở nuôi nhốt ở Long An và Đồng Nai trong năm 2024.

Để kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp giám sát dịch tễ và chẩn đoán xét nghiệm. Việc chẩn đoán có thể dựa trên biểu hiện lâm sàng, giải phẫu bệnh tích, hoặc xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Trong đó, RT-PCR được xem là phương pháp hiện đại, cho kết quả nhanh, chính xác và đặc hiệu cao. Ngoài ra, còn áp dụng kỹ thuật phân lập virus trên trứng gà phôi và giải trình tự gen nhằm xác định chủng virus và phục vụ nghiên cứu vaccine.

Hiện nay, Cục Chăn nuôi và Thú y và các Trung tâm chẩn đoán đang nỗ lực nâng cao năng lực xét nghiệm tại các vùng có nguy cơ cao, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung. Việc tăng cường giám sát, chủ động phát hiện sớm và có phản ứng kịp thời với ổ dịch sẽ góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại và bảo vệ an toàn ngành chăn nuôi gia cầm.

Phòng chống cúm gia cầm tại Việt Nam: Vẫn còn nhiều lỗ hổng

Theo PGS.TS Nguyễn Văn Giáp, Giảng viên Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, một trong những vấn đề nổi cộm trong công tác phòng chống dịch cúm gia cầm là an toàn sinh học vẫn chưa được áp dụng đồng bộ và triệt để. Trong khi một số trang trại lớn thực hiện tốt quy trình vệ sinh, tiêu độc, kiểm soát ra vào, thì nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn xem nhẹ việc khử trùng chuồng trại, thay giày dép khi vào khu vực nuôi, hay sát khuẩn tay sau tiếp xúc với gia cầm. Việc thiếu ý thức tuân thủ chính là nguyên nhân khiến các biện pháp an toàn sinh học trở nên kém hiệu quả.

Không chỉ dừng lại ở vấn đề vệ sinh chuồng trại, công tác phòng bệnh chủ động bằng vaccine, được xem là giải pháp cốt lõi, cũng đang tồn tại nhiều bất cập. Một trong số đó là việc sử dụng vaccine thiếu nhất quán, khi trên thị trường xuất hiện nhiều loại vaccine với các chủng kháng nguyên và lịch tiêm khác nhau, gây khó khăn cho người chăn nuôi trong việc lựa chọn đúng loại phù hợp với tình hình dịch tễ tại địa phương.

Thực tế cho thấy, một số trường hợp dù đã tiêm vaccine vẫn xảy ra dịch, chủ yếu do 3 nguyên nhân: không đạt hiệu giá miễn dịch cần thiết, virus lưu hành không tương đồng với chủng vaccine, hoặc miễn dịch không đồng đều trong đàn khiến vẫn tồn tại những cá thể dễ nhiễm bệnh.

Đáng chú ý, nhận thức chưa đầy đủ về hiệu quả miễn dịch sau tiêm phòng cũng là yếu tố khiến công tác phòng bệnh chưa đạt hiệu quả cao. Nhiều người nuôi vẫn nghĩ rằng tiêm vaccine sẽ giúp gia cầm “miễn nhiễm” hoàn toàn với virus, trong khi trên thực tế, miễn dịch bảo hộ không đồng nghĩa với không nhiễm virus. Điều này đặc biệt nguy hiểm nếu đàn gia cầm được bảo hộ nhưng vẫn thải mầm bệnh ra môi trường.

Một vấn đề khác cần được quan tâm là ảnh hưởng của kháng thể mẹ truyền. Trong các trại nuôi vịt, gà siêu thịt có thời gian nuôi ngắn, nhiều hộ tiêm vaccine rất sớm để phòng bệnh. Tuy nhiên, nếu tiêm vào thời điểm kháng thể mẹ truyền còn tồn tại cao trong cơ thể gà con, hiệu quả vaccine sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Kết quả là dù đã tiêm, đàn vẫn không được bảo vệ đúng mức.

Bên cạnh đó, các yếu tố như virus gây ức chế miễn dịch (IBDV, Reovirus…), độc tố nấm mốc trong thức ăn, stress (do chăm sóc, quản lý không tốt…) cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng đáp ứng miễn dịch của vật nuôi. Khi cơ thể bị suy yếu, việc tạo kháng thể sau tiêm vaccine sẽ không hiệu quả, làm giảm khả năng kiểm soát bệnh.

Nâng cấp tư duy tiêm phòng “đúng chủng – đúng lúc – đúng cách”

Để đảm bảo hạn chế tối đa dịch bệnh bùng phát và lây lan trong khu chăn nuôi, chuồng trại, TS. Phạm Thành Long chia sẻ 3 nguyên tắc quan trọng. Đầu tiên là cách ly khu chăn nuôi, khu nhập giống, khu xử lý chất thải, mỗi khu vực phải riêng biệt để tránh lây nhiễm chéo. Thứ hai, sau khi tránh lây nhiễm chéo cần phải khử trùng, vệ sinh chuồng trại và xử lý chất thải chăn nuôi an toàn sinh học, nếu không loại bỏ được, thuốc sát trùng cũng sẽ bị giảm 90% hiệu quả. Thứ ba, đảm bảo nguyên liệu TĂCN sạch để thức ăn không bị nhiễm tạp khuẩn. Việc vận chuyển, giết mổ và chế biến cũng là một trong những điểm rất cần lưu ý.

PGS.TS Nguyễn Văn Giáp cho biết thêm, để kiểm soát hiệu quả dịch cúm gia cầm trong bối cảnh virus liên tục biến đổi và nguy cơ lây lan rộng, cần một chiến lược đồng bộ kết hợp giữa an toàn sinh học triệt để và tiêm phòng vaccine hiệu quả. Trước hết, các biện pháp an toàn sinh học phải được thực hiện nghiêm ngặt ở mọi khâu chăn nuôi, đặc biệt là kiểm soát tiếp xúc trung gian như phương tiện, người ra vào và động vật hoang dã. Nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ của người chăn nuôi đóng vai trò then chốt, trong đó việc giám sát bằng công nghệ và hành vi theo thời gian thực là giải pháp cần được thúc đẩy.

Ngoài ra, TS. Nguyễn Đăng Thọ cũng chia sẻ thêm, cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp giám sát dịch tễ và chẩn đoán xét nghiệm. Việc chẩn đoán có thể dựa trên biểu hiện lâm sàng, giải phẫu bệnh tích, hoặc xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Trong đó, RT-PCR được xem là phương pháp hiện đại, cho kết quả nhanh, chính xác và đặc hiệu cao. Ngoài ra, còn áp dụng kỹ thuật phân lập virus trên trứng gà phôi và giải trình tự gen nhằm xác định chủng virus và phục vụ nghiên cứu vaccine.

 

Các đại biểu tham dự chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo

Bên cạnh đó, tiêm phòng chủ động bằng vaccine cần được nâng cấp từ tư duy “có là đủ” sang “đúng chủng – đúng lúc – đúng cách”. Điều này đòi hỏi sử dụng vaccine cập nhật kháng nguyên phù hợp với chủng virus đang lưu hành, xây dựng lịch tiêm chủng tối ưu và tính đến ảnh hưởng của kháng thể mẹ ở giai đoạn sớm. Mô hình tiêm nhắc lại dị loại (heterologous prime-boost) và các nghiên cứu mới về miễn dịch sơ sinh thông qua phối hợp epitope đang mở ra hướng đi hứa hẹn để tăng cường hiệu quả bảo hộ. Mục tiêu không chỉ dừng lại ở ngăn ngừa triệu chứng lâm sàng mà phải hướng đến ngăn chặn hoàn toàn khả năng thải virus ra môi trường, điều kiện tiên quyết để chấm dứt dịch bệnh trên diện rộng.

Tại hội thảo, TS. Nguyễn Thị Hương đã gửi lời cảm ơn sự đến các đơn vị đồng hành đã hỗ trợ nhiệt tình cùng Hội Thú y Việt Nam và các anh chị trong bộ phận hậu cần, kỹ thuật đã góp phần vào thành công chung của hội thảo. “Hội thảo hôm nay tuy kết thúc, nhưng chúng tôi tin tưởng rằng, những nội dung, thông tin và kết quả thu nhận được sẽ tiếp tục được lan tỏa, ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn, góp phần tích cực vào công tác phòng chống cúm gia cầm tại Việt Nam, vì một ngành chăn nuôi an toàn, phát triển bền vững và bảo vệ sức khỏe cộng đồng”.

Trần My

Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam

(https://nhachannuoi.vn/phai-lam-gi-truoc-nguy-co-bung-phat-dich-benh-tren-gia-cam/, ngày 28/7/2025)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *